Ca Văn Thỉnh (1902-1987), nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn học Việt Nam.
Bút hiệu Ngạc Xuyên.
Sinh tại xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre.
Giáo sư Ca Văn Thỉnh là thủ lĩnh của Đoàn Thanh niên Tiền Phong – thành viên của Mặt trận Việt Minh, là Ủy viên Ủy ban Liên Việt toàn quốc, là đại diện của Mặt trận Việt Minh – Liên Việt Trung ương tại miền Nam Trung bộ, là Ủy viên UBTƯ MTTQ Việt Nam năm 1955 khi tổ chức này mới được thành lập; là Ủy viên UBTƯ MTTQ Việt Nam sau khi thống nhất ba tổ chức Mặt trận năm 1977.
Về chính quyền, giáo sư là Quyền Bộ trưởng Bộ Giáo dục nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1946), là thế hệ cán bộ ngoại giao đầu tiên của nước ta.
Ca Văn Thỉnh sinh ngày 21/3/1902 trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Thành Hóa, nay là xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cầy Bắc, tỉnh Bến Tre.
Ông là con thứ tư trong một gia đình đông con.
Năm 17 tuổi, do thông minh và chăm học, ông thi đậu bằng thành chung và được cấp học bổng lên Sài Gòn học trường trung cấp sư phạm.
Là một thanh niên thích hoạt động xã hội, trong những năm học ở Sài Gòn, ông tham gia phong trào thanh niên Cao Vọng, nhờ đó có điều kiện được nghe, tiếp xúc và đọc những bài của chí sĩ Nguyễn An Ninh viết trên báo “Tiếng Chuông rè” (La Cloche Fê Lêe).
Sự kiện đó đã ảnh hưởng lớn đến các hoạt động của ông sau này.
Những năm 1925 – 1927, Ca Văn Thỉnh theo học tại trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương ở Hà Nội, cùng khóa với Đặng Thái Mai, Phạm Thiều, Tôn Quang Phiệt v.v… và cùng tham gia các phong trào yêu nước của học sinh, sinh viên.
Vốn say mê văn học và có khiếu về lĩnh vực này, trong thời gian học, ông viết bài cho nhiều tờ báo trong đó có vở cải lương “Bầu nhiệt huyết” nói lên tài năng và lòng yêu nước của danh nhân, nhà văn hóa Nguyễn Trãi, song bị thực dân Pháp ra lệnh cấm diễn.
Năm 1928 tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, ông trở về quê hương và được bổ nhiệm làm Đốc học tỉnh Bến Tre.
Từ 1928 đến 1945 ông sống tại Bến Tre, vừa dạy học, vừa tham gia các phong trào yêu nước, vừa đi sâu nghiên cứu văn hóa, văn học Nam Bộ.
Ông đặc biệt quan tâm đến lịch sử con người Nam bộ, trong đó có những nhân vật tiêu biểu như: Võ Trường Toản, Nguyễn Thông, Nguyễn Đình Chiểu v.v… Giỏi tiếng Pháp, thạo Hán Nôm, ông có điều kiện đi sâu khảo sát các tài liệu cổ ở trong nước cũng như ở Trung Hoa, ở Pháp.
Nhờ đó, những bài viết của ông được giới trí thức đánh giá cao.
Tuy chưa có điều kiện để trực tiếp đến với cách mạng, với Đảng lãnh đạo, song ông dứt khoát không hợp tác với kẻ thù.
Tháng 3/1945 khi Nhật – Pháp bắn nhau, được đọc bài “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” trên tờ Cứu Quốc, ông vội lên Sài Gòn gặp gỡ Thủ lĩnh thanh niên Tiền Phong của các tỉnh về dự Lễ Tuyên thệ ở Vườn Ông Thượng (nay là Vườn hoa Tao Đàn) do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch chủ trì.
Tháng 6/1945 với sự giới thiệu của hai đồng chí Phạm Ngọc Thạch và Kha Vạn Cân, Ca Văn Thỉnh được cử làm Thủ lĩnh thanh niên Tiền Phong – thành viên nòng cốt của Mặt trận Việt Minh.
Ngày 25/8/1945, Ca Văn Thỉnh huy động Đoàn thanh niên Tiền phong cùng nhân dân vùng lên giành chính quyền về tay mình ở Bến Tre.
Cuộc khởi nghĩa thắng lợi, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh kiêm Ủy viên Ủy ban Liên Việt Nam bộ.
Ngày 20/3/1946 ông được lãnh đạo khu 8 cử tham gia đoàn đại biểu Nam bộ ra Hà Nội báo cáo tình hình miền Nam và xin chi viện vũ khí cho chiến trường miền Nam.
Đoàn do đồng chí Đào Văn Trường – Trưởng khu 8 – nguyên là cán bộ khởi nghĩa Bắc Sơn được Trung ương bổ sung cho Nam bộ làm Trưởng đoàn.
Tham gia Đoàn có: Ca Văn Thỉnh - Ủy viên Ủy ban kháng chiến – hành chính Bến Tre; Lê Thị Tài – giáo viên dạy tiếng Pháp tại trường trung học tỉnh, Hội trưởng Hội phụ nữ cứu quốc tỉnh, người bạn đời của Ca Văn Thỉnh; Nguyễn Thị Định – người trẻ nhất trong Đoàn, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Phụ nữ cứu quốc tỉnh; bác sĩ Trần Hữu Nghiệp và một cán bộ của Ủy ban tỉnh là đồng chí Tư Minh.
Đoàn xuất phát từ cửa biển Bến Tre ra Phú Yên bằng tàu đánh cá nghi trang.
Đi được nửa đường thì đồng chí Lê Thị Tài bị bệnh tim, buộc phải ghé vào Phan Rang để đồng chí ở lại đó, còn đoàn tiếp tục lên đường.
Đến Hà Nội đoàn được Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận quan tâm chăm sóc, đặc biệt được Bác Hồ tiếp đón ân cần.